Hãy đến cùng Giêsu

Công Giáo - Mời Vào

Đi với người khôn, ắt sẽ nên khôn,
chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy hoạ. (Cn 13,20)

Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng?
Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. (Tv 119,9)

Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. (Tv 126,5)

Thông Điệp Chúa Cha Gửi Bạn



1. Lời nói đầu
2. Mẹ Eugenia là ai?
3. Thông điệp của Chúa Cha - phần I
5. Với Ðức Giám Mục
6. Thông điệp của Chúa Cha - phần II
7. Tuần chín ngày
8. Chứng từ của Ðức Cha Caillot

Chúa Cha phán dạy con cái của Ngài
Nguyên tác: Got The Father Speaks To His Children
Dòng Ðức Mẹ Các Tông Ðồ - 1989
+++
Phải chăng chúng ta có một người Cha bị bỏ quên?


1. Lời nói đầu

“Thiên Chúa là Cha tôi” Tiếng kêu này trên thế giới ngày nay đang được nghe đến ngày càng thường xuyên hơn: Người ta đang nhận ra Thiên Chúa thực sự là Người Cha của họ.
Vì thế, chúng tôi cảm thấy có nhiệm vụ phải phát hành một bức thông điệp đã được Chúa Cha ban cho thế giới, qua một thụ tạo hết lòng yêu mến Người, đó là nữ tu Eugenia ElisabetCha Ravasio, và đã được Giáo Hội công nhận là xác thực.
Khi giới thiệu tài liệu này, chúng tôi nhận thấy nên trích lại tuyên ngôn chứng nhận của Ðức cha Alexandre Caillot, nguyên Giám mục giáo phận Grenobe. Năm 1935, ngài đã thành lập một ủy ban gồm chuyên viên từ nhiều miền khác nhau của nước Pháp, để tiến hành cuộc điều tra cấp giáo phận kéo dài 10 năm.
Thành viên trong ủy ban, gồm Ðức Cha Guerry, thần học gia, tổng đại diện của giám mục giáo phận Grenobe, hai linh mục Dòng Tên là cha Albert và cha Auguste Valencin-Amos, những vị có uy tín hàng đầu trong lãnh vực triết học, thần học và là chuyên gia thẩm định những trường hợp như thế, hai bác sĩ y khoa, trong đó một vị là chuyên gia thần kinh. Chúng tôi tin chắc thông điệp này sẽ giúp mọi người hiểu được Tình Hiền Phụ sâu đậm Chúa Cha dành cho từng người chúng ta, và chúng tôi hy vọng bức thông điệp sẽ được phổ biến rộng rãi hết sức có thể.
Linh Muc Andrea D’Ascanio, OPM Cap.


2. Mẹ Eugenia ElisabetCha Ravasio là ai?

Mẹ Eugenia, người đã được Chúa Cha gọi là “Ái nữ của Cha” và “Cây nhỏ của Cha” là ai?
Theo ý kiến chúng tôi, Mẹ Eugenia là một trong những ngọn đèn rạng rỡ nhất trong thời đại chúng ta, vị ngôn sứ nhỏ của Giáo Hội mới, trong đó Chúa Cha là tâm điểm và là chóp đỉnh của toàn thể nhân loại, và sự hợp nhất là lý tưởng linh đạo cao cả nhất. Mẹ Eugenia là ngọn đèn Chúa Cha ban cho thế giới trong thời đại nhiễu nhương và tăm tối này, giúp chúng ta có thể nhìn thấy con đường để dấn bước.
Mẹ chào đời vào ngày 4 tháng 9 năm 1907, tại San Gervasio d’Adda (nay là Capriato San Gervasio) một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Bergamo, nước Ý, trong một gia đình thuộc lớp nông dân.
Eugenia chỉ học đến trình độ tiểu học. Sau vài năm làm việc tại một xưởng máy, Eugenia đã gia nhập Dòng Ðức Mẹ các Tông Đồ vào năm 20 tuổi. Chính tại đây tư cách đoàn sủng cao vời của nữ tu Eugenia đã phát triển, đưa đến việc được bầu vào chức vụ bề trên tổng quyền của hội dòng khi mới 25 tuổi.
Đừng kể những phẩm chất tinh thần, chỉ những công việc của Mẹ Eugenia trong lãnh vực xã hội cũng đủ đảm bảo cho Mẹ một vị trí trong lịch sử. Trong 12 năm hoạt động truyền giáo, Mẹ đã khai mở hơn 70 trung tâm, mỗi trung tâm đều có bệnh xá, trường học, nhà thờ, tại những vùng heo hút nhất ở Phi châu, Á châu, và Âu châu.
Mẹ Eugenia là người đã tìm ra loại thuốc để chữa bệnh phong cùi đầu tiên, chiết xuất từ hạt của một giống cây nhiệt đới. Loại thuốc này về sau đã được nghiên cứu và phát triển hơn nữa tại viện Pasteur ở Paris. Mẹ Eugenia đã cổ động công việc tông đồ của Raoul Follereau, người theo bước Mẹ và khuếch triển những cơ sở Mẹ đã thiết lập, và được coi là vị tông đồ của người cùi.
Trong giai đoạn 1939-1941, Mẹ đã khai sáng hoạch định và đem đến thành công dự án về một “Thành phố cho Bệnh Nhân Phong Cùi” tại Azopte (nước Bờ Biển Ngà, Phi Châu). Đây là một trung tâm có tầm cỡ, trải rộng trên một khu vực 200,000 mét vuông. Cho đến nay, trung tâm này vẫn là trung tâm hàng đầu của Phi Châu và thế giới dành cho bệnh nhân phong cùi.
Để tôn vinh thành tựu ấy, nước Pháp đã trao tặng vinh dự quốc gia cao cấp nhất về công cuộc xã hội cho Dòng Nữ Tu Thừa Sai Ðức Mẹ các Tông Đồ, hội dòng có Mẹ Eugenia làm bề trên tổng quyền trong thời gian từ 1935-1947. Mẹ Eugenia đã trở về Nhà Cha vào ngày 10 tháng 8 năm 1990. Di sản quan trọng nhất Mẹ Eugenia để lại cho chúng ta là Bức Thông Điệp của Chúa Cha. ‘Mặc khải tư’ duy nhất do chính Chúa Cha thực hiện, và tính xác thực của nó đã được Giáo Hội công nhận sau 10 năm cứu xét rất kỹ lưỡng. Trước khi vào phần bản văn, chúng tôi cho in lại tuyên ngôn của Ðức cha Alexandre Caillot, giám mục giáo phận Grenoble, đã công bố sau cuộc điều tra. Đáng chú ý là Chúa Cha (năm 1932) đã đọc thông điệp này cho Mẹ Eugenia bằng tiếng La Tinh, một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với Mẹ. Năm 1981, chúng tôi mới được nghe biết về bức thông điệp này, và năm 1982, nhân dịp kỷ niệm 50 năm, chúng tôi đã ấn hành thông điệp này tại Ý.
Nhiều phép lạ ơn thánh được thực hiện nhờ thông điệp này, đã đưa chúng tôi đến việc phổ biến miễn phí, đặc biệt cho các nhà tù, doanh trại quân đội, và bệnh viện. Ngoài bản tiếng Anh, hiện nay thông điệp này cũng đã có các bản bằng tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Ðức, Việt Nam v.v...



Ngày 1 tháng 7 năm 1932
Đại lễ kính Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô
Sau cùng, đây là ngày hồng phúc muôn đời, ngày Chúa Cha trên trời đã phán hứa!
Hôm nay, những ngày dài chuẩn bị đã qua, tôi cảm thấy rất gần, sát gần cuộc ngự đến của Cha tôi và là Cha của mọi người. Một vài phút cầu nguyện, và rồi những niềm vui thiêng liêng dạt dào. Tôi rạo rực vì khát khao được nhìn thấy Người và lắng nghe lời Người. Bừng cháy tình yêu, tâm hồn tôi mở toang trong niềm tín cẩn lớn lao, đến độ tôi nhận ra, cho đến lúc ấy, tôi chưa tin tưởng vào ai như thế bao giờ.
Có thể nói, việc tưởng nghĩ về Chúa Cha đã làm tôi hạnh phúc đến ngây dại. Sau cùng, tôi cất tiếng hát. Các thiên thần đã đến loan báo cuộc ngự đến đầy hoan lạc. Những ca khúc của các ngài du dương đến nỗi tôi đã quyết định ghi lại càng sớm càng tốt. Bản hợp ca vừa chấm dứt, thì kìa, tiếp đến là đoàn cung nghinh của cộng đoàn các thánh, các thần Kêrubim và Xêraphim hộ giá Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, và là Hiền Phụ của chúng ta. Phủ phục sát đất, dìm mình trong sự hư vô của mình, tôi đã cất lên bài Magnificat. Liền sau đó, Chúa Cha truyền cho tôi hãy ngồi sát bên Ngài và ghi chép những điều Ngài quyết định phán dạy cho nhân loại.
Toàn thể triều đình thiên quốc đồng hành với Chúa Cha đều biến đi. Chỉ còn một mình Chúa Cha ở lại với tôi, trước khi ngồi xuống, Người phán: “Cha đã nói rồi, và giờ đây, Cha lại nói với các con: “Cha không thể ban Người Con Dấu Yêu của Cha cho các con một lần nữa, để chứng tỏ tình yêu của Cha dành cho nhân loại! Giờ đây, Cha đến với họ, mặc lấy hình thể và sự nghèo nàn của họ, để yêu thương và làm cho họ nhận biết tình yêu thương ấy. Này giờ đây, Cha còn bỏ triều thiên và tất cả vinh quang của Cha để mặc lấy hình thể của một con người bình thường”.
Sau khi đã mặc hình dạng của một người bình thường, bằng cách đặt triều thiên và vinh quang của Người dưới chân, Chúa Cha cầm lấy quả địa cầu, dùng tay trái nâng lên và áp vào lòng Người. Sau đó Người ngồi sát bên tôi.
Tôi chỉ nói được vài lời về cuộc ngự đến và hình dạng Ngài đã đoái thương mặc lấy, cũng như về tình yêu của Ngài! Nhưng vì ngu dốt, tôi không có ngôn từ để diễn tả những điều Ngài đã mặc khải cho tôi.
Chúa phán: “Bình an và ơn cứu độ cho nhà này và cho toàn thể thế giới! Ước chi quyền năng, tình yêu và Thánh Thần của Cha đánh động những con tim nhân loại, để toàn thể nhân loại quay về với ơn cứu độ và người Cha của họ!
Đại diện của Cha là Pius XI hãy hiểu biết đây là những ngày cứu độ và phúc lành. Ngài đừng bỏ lỡ cơ hội này để kêu gọi con cái lưu tâm đến người Cha của họ, Đấng đến để cứu giúp họ trong cuộc đời này và chuẩn bị hạnh phúc muôn đời cho họ.
Cha đã chọn ngày này để khởi sự công cuộc của Cha giữa nhân loại, bởi vì hôm nay là ngày lễ kính thờ Máu Thánh Con Cha là Chúa Giêsu. Cha muốn tưới gội công cuộc của Cha đang khởi sự trong Máu Thánh này, để nó trổ sinh hoa trái phong phú nơi toàn thể nhân loại.
Đây là mục đích của việc Cha đến:
1/ Cha đến để làm tiêu tan nỗi sợ hãi quá đáng nơi các thụ tạo đối với Cha, và tỏ cho họ biết rằng: Sự vui mừng của Cha là được các con nhận biết và yêu mến Cha. Các con ấy là toàn thể nhân loại hiện tại cũng như tương lai.
2/ Cha đến để đem lại hy vọng cho mọi người và mọi dân tộc. Biết bao người, biết bao dân tộc từ lâu nay đã mất hy vọng! Niềm hy vọng này sẽ cho họ sống trong bình an và yên vui, góp phần đem lại ơn cứu độ cho họ.
3/ Cha đến để làm cho mọi người nhận biết cho đúng cho phải về Cha, ngõ hầu lòng tín thác cũng như tình yêu của nhân loại dành cho Cha là Cha của họ được gia tăng. Cha chỉ có một bận tâm duy nhất là chăm sóc tất cả mọi người, là yêu thương họ như con.
Người họa sĩ tìm vui thích khi ngắm nhìn bức tranh mình đã thực hiện thế nào, thì niềm hoan lạc và vui sướng của Cha là đến với nhân loại, kiệt tác trong công trình sáng tạo của Cha, cũng như vậy.
Thời gian cấp bách. Cha ước gì mọi người được nhận biết thật sớm rằng: Cha yêu thương họ và Cha coi hạnh phúc lớn nhất của Cha là được ở với họ và trò chuyện với họ như một người Cha với con mình.
Cha là Đấng Hằng Hữu, vào thời Cha chỉ có một mình, Cha đã quyết định dùng quyền năng tuyệt đối của Cha để tạo dựng con người theo hình ảnh Cha. Nhưng trước đó cần phải tạo dựng vật chất, cho con người có đủ điều kiện để sinh sống. Thế rồi Cha đã tạo dựng thế giới, Cha đổ đầy cho nó tất cả những gì Cha biết sẽ cần thiết cho con người: Không khí, nắng, mưa và nhiều thứ khác mà Cha biết là cần thiết cho đời sống con người.
Cuối cùng, nhân loại đã được tạo thành! Cha lấy làm vui mừng với công trình tay Cha thực hiện. Con người phạm tội, nhưng chính lúc ấy lòng nhân từ vô biên của Cha càng tỏ hiện hơn.
Để sống giữa loài người Cha tạo dựng, trong thời Cựu Ước, Cha đã tuyển chọn những ngôn sứ. Cha đã thổ lộ những ước muốn, những nỗi buồn và niềm vui của Cha cho họ, để họ truyền đạt lại cho mọi người.
Sự dữ càng bành trướng thì lòng nhân từ càng thôi thúc Cha phải tỏ mình ra cho những linh hồn công chính, để họ truyền đạt các mệnh lệnh của Cha cho những người gây rối trật tự. Vậy là, đôi khi Cha đã phải buộc lòng dùng sự nghiêm khắc, không phải để trừng phạt nhưng là để sửa lỗi họ - vì trừng phạt chỉ gây tai hại. Cha nghiêm khắc sửa lỗi để đưa con người ra khỏi sự xấu xa mà quay về với Cha họ, là Đấng tạo dựng họ, mà họ đã lãng quên và hững hờ trong thói vô ơn tệ bạc.
Về sau, tội lỗi nhận chìm trái tim con người quá đỗi, khiến Cha miễn cưỡng phải để cho tai họa đổ xuống trên thế giới, ngõ hầu con người được thanh luyện bằng đau khổ, bằng tàn phá của cải, hoặc thậm chí cả mất mát sự sống. Những tai ương đó là nạn Đại Hồng Thủy (St 6,5tt), nạn hủy diệt thành Sôđôma và Gômôra (St 18,16tt), nạn chiến tranh con người chống lại con người v.v…
Lúc nào Cha cũng mong ước được ở lại giữa con người trên trần gian này. Vì thế trong Hồng Thủy, Cha đã ở kề bên ông Noe, người công chính duy nhất trong thời ấy. Cũng vậy, trong những tai ương khác, Cha luôn luôn tìm được một người công chính, để Cha ở với họ, và qua họ, Cha ở giữa loài người thời đó. Và lúc nào cũng như vậy.
Thế gian đã nhiều phen được tẩy rửa khỏi sa đọa, do lòng nhân lành vô cùng của Cha đối với nhân loại. Những khi đó, Cha tiếp tục kén chọn một số linh hồn mà Cha hài lòng, để qua họ, Cha được hài lòng với các thụ tạo của Cha, là loài người.
Cha đã hứa ban cho thế giới một Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Còn điều gì mà Cha đã không làm để chuẩn bị cho Người đến! Cha đã tỏ mình qua những nhân vật tiên trưng cho Đấng Cứu Thế cả ngàn năm, hai ngàn năm  trước khi Người đến!
Vậy, Đấng Messia là ai? Người từ đâu đến? Người sẽ làm gì trên trái đất? Người đến để đại diện cho ai?
Đấng Cứu Thế chính là Thiên Chúa.
Thiên Chúa là ai? Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Đấng Cứu Thế từ đâu mà đến? Hay nói đúng hơn, ai đã truyền cho Người đến giữa nhân loại? Chính là Cha, Thiên Chúa, Cha của Người.
Người đại diện cho ai trên trái đất? Đại diện cho Thiên Chúa, Cha của Người.
Người sẽ làm gì trên trái đất? Người sẽ làm cho người ta nhận biết và yêu mến Cha, Thiên Chúa.
Chẳng phải Người đã nói thế này sao:
“Cha mẹ không biết Con phải lo việc của Cha con sao?” (Lc 2,49)
“Thầy đến cốt để thực thi thánh ý của Cha Thầy” (Ga 6,38).
“Những gì anh em nhân danh Thầy mà xin Cha, Người sẽ ban cho anh em” (Ga 15,16).
“Anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9)
Và nơi khác, vì Người đến để tôn vinh Cha, và làm cho mọi người nhận biết Cha, nên Người đã nói:
“Hễ ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,19).
“Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy” (Ga 14,10)
“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Hỡi nhân loại, các con hãy biết rằng: Từ muôn thuở, Cha chỉ có một ước muốn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha. Ước muốn của Cha là không ngừng ở lại với loài người.
Các con có muốn một bằng chứng xác thực về khát vọng mà Cha vừa bày tỏ không? Tại sao Cha đã truyền cho Moses dựng Lều Tạm và Hòm Bia Giao Ước, nếu không phải là vì Cha nhiệt tình muốn đến ở với loài người, như một người Cha, một người Anh, một người Bạn tín cẩn? Đó là ước vọng tha thiết của Cha. Mặc dù vậy, họ đã lãng quên Cha và xúc phạm Cha bằng vô vàn tội lỗi.
Bất chấp tất cả, Cha đã ban cho Moses những giới luật để nhắc nhở họ về Thiên Chúa, Cha của họ, và ước mong độc nhất của Người là cứu độ họ. Đúng ra họ phải tuân giữ các giới luật, và qua đó mà tưởng nhớ đến Cha nhân từ vô hạn hằng bận tâm lo cho họ được hạnh phúc ở đời này và đời sau vô tận.
Tất cả điều ấy đã bị lãng quên, nhân loại chìm đắm trong lầm lạc và sợ hãi, họ coi việc tuân giữ các giới luật Cha đã truyền cho họ qua Moses là quá khắc khe. Họ đã tự tạo ra những thứ luật khác, hợp với thói xấu của họ, để thi hành cho dễ dàng hơn. Dần dần trong sự sợ hãi thái quá đối với Cha, họ càng ngày càng lãng quên Cha và tha hồ xúc phạm Cha.
Tuy vậy, hỡi các con, tình yêu Cha dành cho loài người không bao giờ vì thế mà phôi phai. Chỉ khác là, khi nhận thấy dầu các tổ phụ cũng như các ngôn sứ cũng không thể làm cho con người nhận biết và yêu mến Cha, thì Cha quyết định thân hành đến với loài người.
Nhưng đến với nhân loại bằng cách nào? Không có cách nào khác hơn là đích thân Cha ra đi trong Ngôi Hai của thần tính Cha.
Loài người có nhận biết Cha không? Họ có lắng nghe lời Cha không? Đối với Cha, không có gì che khuất trong tương lai. Vậy chính Cha trả lời hai câu hỏi này như sau:
“Họ sẽ không biết sự hiện diện của Cha, cho dù họ ở rất gần bên Cha. Họ sẽ hành hạ Cha trong Con Cha, mặc dầu Người đã làm cho họ mọi điều tốt lành. Trong Con Cha, họ sẽ lăng mạ Cha, họ sẽ đóng đinh Cha để Cha phải chết”.
Có phải vì vậy mà Cha dừng lại chăng? Không, tình yêu Cha dành cho con cái nhân loại của Cha quá lớn lao.
Cha không ngưng lại ở đó đâu! Nhưng các con phải nhận biết rằng, Cha đã yêu thương các con, có thể nói còn hơn chính Con yêu dấu của Cha, hay nói rõ hơn, còn hơn chính mình Cha.
Những điều Cha đang nói với các con là rất thật, đến độ nếu phải để cho một trong các thụ tạo của Cha chịu một kiếp sống và một cái chết như Con Cha mà cũng đủ đền tội cho mọi người, thì hẳn là Cha đã trù trừ do dự. Tại sao thế? Bởi khi bắt một thụ tạo của Cha phải đau khổ, thay vì chính Cha phải chịu đau khổ nơi Con Cha, thì Cha đã tự phản lại tình yêu của Cha. Cha không bao giờ muốn con cái của Cha phải chịu đau khổ.
Đó là tóm tắt câu chuyện về tình yêu của Cha, từ đầu cho đến khi Cha đến giữa thế gian qua Con Cha.
Hầu như ai cũng biết tất cả về những biến cố ấy, nhưng họ lại không biết điều cốt yếu: Chính tình yêu đã chỉ đạo mọi sự! Phải, đó là tình yêu. Đó là điều Cha muốn các con nhận cho rõ trong câu chuyện các con vừa nghe.
Giờ đây tình yêu ấy đã bị lãng quên. Cha muốn nhắc nhở cho các con về điều ấy, để các con học biết Cha và hiểu về Cha cho đúng, để các con không sợ hãi như kẻ nô lệ đối với một người Cha quá yêu thương các con dường ấy.
Các con hãy xem, trong câu truyện này, chúng ta mới chỉ ở ngày đầu của thế kỷ thứ nhất, và Cha muốn đem nó đến thời hiện tại, thế kỷ hai mươi.
Ôi, tình yêu thương hiền phụ của Cha đã bị loài người quên lãng! Tuy nhiên, Cha yêu thương các con thật tha thiết! Nơi Con Cha, nghĩa là nơi Ngôi Vị Chúa Con Làm Người của Cha, có gì mà Cha đã chưa làm? Thần tính đã tự bị che khuất trong nhân tính, trở nên bé nhỏ, nghèo nàn, khiêm hạ. Cha sống với con Giêsu của Cha một đời sống hy sinh, cần cù lao động. Cha đã nhận những lời cầu nguyện của Người, để nhân loại có được một con đường sáng tỏ, để luôn bước đi trong công chính, và đến được với Cha một cách an lành.
Dĩ nhiên, Cha hiểu rõ những yếu đuối của con người. Vì vậy, Cha đã yêu cầu Con Cha hãy ban những phương thế giúp họ chỗi dậy sau mỗi khi sa ngã. Những phương thế này sẽ giúp họ tự thanh tẩy bản thân cho khỏi tội lỗi, để mãi mãi họ vẫn là con cái của Tình Cha Yêu Thương. Chính yếu đó là Bảy Nhiệm Tích. Và phương thế cao nhất để bảo đảm ơn cứu độ cho các con, bất chấp những sa ngã của các con, ấy chính là Thánh Giá. Máu Thánh Con Cha sẽ tuôn tràn từng giây phút trên các con, miễn là các con ước muốn, hoặc bằng Nhiệm Tích Hòa Giải, hoặc bằng Hy Tế Thánh Lễ.
Hỡi các con yêu quý của Cha, cùng với những hồng ân này, Cha còn ban lai láng những tặng ân đặc biệt cho các con suốt hai mươi thế kỷ đã qua, nhưng kết quả thật quá nhỏ nhoi!
Biết bao thụ tạo của Cha, những kẻ nhờ Con Cha mà trở nên con cái của Lòng Cha yêu thương, đã lao mình rất mau xuống vực thẳm đời đời! Quả thật, họ đã không biết gì về lòng nhân lành vô biên của Cha. Cha yêu thương các con thắm thiết biết bao! (Câu này mẹ Eugenia thích nhất và thường nhắc lại luôn)
A! Phần các con là những người được biết chính Cha đến ngỏ lời với các con, để làm cho các con nhận rõ lòng yêu thương của Cha, thì ít là các con hãy thương đến chính mình mà đừng lao mình xuống vực thẳm. Cha là Cha các con.
Có lẽ nào sau khi các con đã gọi Cha là Cha, và biểu lộ lòng yêu mến đối với Cha, các con lại thấy nơi Cha một trái tim chai đá và vô cảm đến nỗi cứ để mặc các con hư mất hay sao? Không, không! Các con đừng nghĩ như thế! Cha là người Cha tốt lành nhất trong các người cha. Cha biết rõ những yếu đuối nơi các thụ tạo của Cha. Các con hãy đến! Hãy đến cùng Cha với lòng tín cẩn và yêu mến! Và Cha, Cha sẽ tha thứ cho các con theo lòng thống hối. Cho dù tội lỗi các con có ghê tởm như bùn nhơ, lòng tín cẩn và yêu mến của các con sẽ làm Cha quên hết, đến mức các con sẽ không bị phán xét! Quả thật, Cha là Đấng Công Bình, nhưng tình yêu sẽ bù đắp được mọi sự.
Hãy lắng nghe, hỡi các con của Cha, chúng ta hãy thử làm một so sánh để các con vững tin vào tình yêu của Cha. Đối với Cha, những tội lỗi của các con giống như sắt, và những tác động yêu mến của các con là như vàng. Các con dâng cho Cha một ngàn cân sắt, cũng không bằng dâng cho Cha chỉ mười cân vàng! Điều ấy có nghĩa là, với một ít tình yêu người ta chuộc được muôn vàn tội lỗi.
 Đó là cách nhìn rất an tâm về sự phán xét của Cha, dành cho tất cả con cái nhân loại, không ngoại trừ ai. Các con phải đến với Cha. Cha rất gần gũi các con. Các con hãy yêu mến và tôn vinh Cha, để các con khỏi bị phán xét, hay nói đúng hơn, để được phán xét bằng một tình yêu vô cùng nhân hậu.
Các con đừng hoài nghi. Nếu tấm lòng Cha không như thế, có lẽ Cha đã hủy diệt thế gian này biết bao lần, khi nó phạm những tội nặng nề quái gở rồi! Thế nhưng, như các con đã thấy, sự bảo bọc che chở của Cha biểu hiện từng giây phút qua bao nhiêu hồng ân, bao nhiêu phúc lành!
Từ đó, các con có thể kết luận rằng, các con có một người Cha hơn hết mọi người cha, Đấng yêu thương các con và sẽ không bao giờ ngừng yêu thương các con, miễn là các con muốn được yêu thương.
Cha đến với các con bằng hai con đường: Thánh Giá và Thánh Thể. Thánh Giá là con đường Cha đi để đến tận các con, bởi vì chính bằng Thánh Giá mà Cha đã cứu chuộc các con. Do Cha chọn đó! Còn đối với các con, Thánh Giá cũng là con đường để các con đến với Con Cha, và từ Con Cha mà đến cùng Cha. Không có Thánh Giá, các con không bao giờ có thể đến được với Cha, bởi vì sau khi phạm tội, nhân loại đã chuốc lấy hình phạt vì xa lìa Thiên Chúa.
Trong Thánh Thể, Cha sống giữa các con như một người Cha giữa gia đình của mình. Cha muốn Con Cha thiết lập bí tích Thánh Thể, để làm cho mọi nhà tạm trở nên bình đựng những ân sủng, những báu tàng và tình yêu của Cha, ngõ hầu ban phát cho loài người, con cái Cha.
Cũng qua hai con đường ấy, Cha vẫn để quyền năng và lòng thương xót vô bờ của Cha trào tuôn không ngừng cho các con.
Cha đã cho các con thấy rõ rằng, Con Chí Thánh Giêsu của Cha là đại diện cho Cha giữa các con, và qua Người, Cha luôn sống giữa các con. Cha còn muốn cho các con thấy Cha đến giữa các con qua Thánh Thần của Cha nữa.
Công việc của Ngôi Ba trong thần tính của Cha, được thực hiện một cách lặng lẽ, và nhân loại thường không nhận ra điều ấy. Nhưng đối với Cha, đó là một cách rất phù hợp, không chỉ trong nhà tạm, mà còn trong tâm hồn của tất cả những ai sống trong tình trạng ơn thánh, để thiết lập ngai tòa của Cha nơi họ, và ngự ở đó luôn mãi, như một người Cha đích thực, hằng che chở và nâng đỡ đứa con của mình.
Không ai có thể hiểu được sự vui mừng của Cha khi ở với một linh hồn, mặt giáp mặt, lòng bên lòng. Cho đến nay, chưa ai hiểu được những ước muốn vô tận của Trái Tim Cha là Thiên Chúa: Đó là ước muốn được mọi người, cả kẻ lành và kẻ dữ, nhận biết, yêu mến và tôn kính Cha. Mà cả ba tác động vinh dự ấy, Cha muốn nhận được từ những người tội lỗi nhất.
Có gì mà Cha đã chưa làm cho dân Cha, từ Ađam cho đến Giuse, dưỡng phụ của Chúa Giêsu, và từ thời của Giuse cho đến thời đại hiện nay, để nhân loại dâng cho Cha một vinh dự đặc biệt, xứng đáng với Cha là Hiền Phụ, là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ của họ. Vậy mà Cha vẫn chưa nhận được niềm tôn vinh đặc biệt mà Cha rất hy vọng và hết lòng mong ước!
Trong sách Xuất Hành, các con đọc thấy rằng “Phải tôn kính Thiên Chúa bằng một việc tôn thờ đặc biệt”. Giáo huấn này đặc biệt hàm chứa trong các thánh vịnh Đavit. Trong những điều đích thân Cha truyền ban cho Moses, Cha đã nhấn mạnh: “Các người phải trọn niềm thờ phượng và yêu mến một Thiên Chúa duy nhất”.
Vì thế, yêu mến và tôn kính là hai việc đi liền với nhau. Vì Cha đã ban dư tràn ân sủng trên các con, nên Cha phải được các con tôn kính cách đặc biệt mới phải!
Khi ban sự sống cho các con, Cha đã muốn tạo dựng các con theo hình ảnh và giống như Cha. Vậy nên, trái tim các con cũng dễ xúc cảm như Trái Tim Cha, và Trái Tim Cha như trái tim các con!
Nếu một người láng giềng thực hiện một điều gì nhỏ bé làm vui lòng các con, thì các con đối xử làm sao? Người lạnh lùng nhất cũng nhớ mãi lòng biết ơn đối với người ấy. Thông thường, ai cũng tìm điều gì làm vui lòng người ấy nhất để tưởng thưởng việc họ đã làm giúp mình. Phải, về phần Cha, Cha sẽ càng biết ơn các con hơn biết bao, bằng cách đảm bảo cho các con sự sống muôn đời, nếu các con thực hiện cho Cha một việc nhỏ bé là tôn kính Cha như Cha mong muốn. 
Cha nhìn nhận rằng các con đã tôn vinh Cha nơi Con Cha, và có những người biết nhờ Con Chí Thánh Cha mà dâng mọi sự tới tận Cha, nhưng con số những người ấy thật rất ít ỏi!
Dù vậy, các con đừng nghĩ rằng khi các con tôn kính Con Cha là các con không tôn kính Cha! Đó chính là các con tôn kính Cha, bởi vì Cha ở trong Con Cha! Như vậy, tất cả những gì làm vinh danh Con Cha, cũng là làm vinh danh Cha.
 Nhưng Cha muốn thấy nhân loại tôn vinh Hiền Phụ và Tạo Hóa của họ bằng một sự tôn thờ đặc biệt. Các con càng tôn vinh Cha hơn, thì Con Cha cũng càng được tôn vinh hơn, bởi vì theo Thánh Ý Cha, Người đã là Ngôi Lời Nhập Thể và đến giữa các con, để làm cho các con nhận biết Đấng đã sai  Người. 
Nếu các con nhận biết Cha, các con sẽ yêu mến Cha, và các con sẽ yêu mến Con Yêu Dấu của Cha hơn hiện nay nhiều. Các con hãy xem, biết bao thụ tạo của Cha, những kẻ đã trở nên con cái của Cha nhờ mầu nhiệm Cứu Chuộc, vậy mà họ vẫn chưa sống trong cánh đồng xanh tươi, mà qua Con Cha, Cha đã chuẩn bị cho toàn thể nhân loại. Và biết bao người nữa, như các con thấy rõ, họ chưa hề biết đến những đồng lúa đó! Biết bao thụ tạo xuất phát từ tay Cha, Cha biết rõ đời sống của họ, vậy mà họ chẳng biết đến cả Bàn Tay đã tạo dựng nên họ!
A! Cha ước ao dường nào cho người ta biết Cha là Cha Toàn Năng làm mọi ơn lành cho các con và cũng là Cha Toàn Năng làm mọi ơn lành cho những kẻ ấy. Cha muốn cuộc sống của họ được an vui hơn nữa, nhờ lề luật của Cha. Cha ước muốn các con hãy nhân danh Cha mà đến với họ vì Cha. Phải, các con hãy nói với họ rằng: Họ có một người Cha, người Cha ấy sau khi dựng nên họ, lại còn muốn ban tặng họ các kho tàng của Ngài. Nhất là các con hãy nói với họ rằng: Cha tưởng nhớ đến họ, Cha yêu thương họ, và Cha muốn ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu các con làm như vậy, Cha hứa với các con: Người ta sẽ trở lại cùng Cha mau chóng hơn.
Các con hãy tin Cha, giả như ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, nếu các con đã tôn kính Cha, và làm cho người ta tôn kính Cha bằng một việc phụng tự đặc biệt, thì sau hai mươi thế kỷ, sẽ chẳng còn mấy người sống trong lầm lạc, trong nạn thờ ngẫu tượng, ngoại giáo, và nhiều giáo phái giả dối xấu xa, mà nhân loại hiện giờ đang mù quáng chạy theo để rồi lao mình xuống hố lửa đời đời! Các con hãy xem, việc còn lại phải làm đa đoan biết chừng nào!
Giờ của Cha đã đến! Cha phải được nhân loại nhận biết, yêu mến và tôn vinh, để sau khi tác thành nên họ, Cha có thể làm Cha họ, rồi Đấng Cứu Độ của họ, và sau cùng là đối tượng cho những vinh phúc muôn đời của họ.
Cho đến lúc này, Cha toàn nói những điều các con đã biết. Cha muốn nhắc nhở các con về những điều ấy, để các con luôn thêm xác tín rằng: Cha là một người Cha rất nhân từ và không phải đáng sợ như các con tưởng, và rằng Cha là Cha của hết thảy mọi người đang sống hoặc sẽ được Cha tạo dựng cho đến tận thế.
 Các con cũng hãy biết rằng Cha muốn được nhận biết, được yêu mến, và nhất là tôn kính. Ước chi mọi người nhận biết lòng nhân lành vô biên của Cha đối với mọi người, nhất là những người tội lỗi, người đau bệnh, người hấp hối và tất cả những ai chịu đau khổ. Chớ gì họ biết rằng: Cha chỉ có một ước muốn duy nhất là yêu thương họ hết thảy, ban cho họ các ân sủng của Cha, tha thứ theo lòng thống hối của họ, và nhất là không phán xét họ theo Phép Công Thẳng, nhưng bằng tình thương xót của Cha, để ai nấy đều được cứu độ và được đưa vào hàng ngũ các thánh, những người được tuyển chọn.
Để kết thúc những điều bày tỏ vắn tắt trên đây, Cha ban cho các con một điều hứa có hiệu quả muôn đời:
“Hãy gọi Cha bằng danh từ Cha với lòng tín cẩn và yêu mến, rồi các con sẽ nhận được từ Cha tất cả mọi sự, với tình yêu và lòng thương xót”.  
Cha ước mong con yêu của Cha, là cha linh hướng của con, biết lo cho vinh quang Cha và ghi nhận từng lời, từng câu về những gì Cha đã truyền cho con viết, và cả những gì Cha còn truyền cho con viết nữa, đừng thêm thắt gì vào những điều Cha đã bày tỏ với con, để mọi người nhận thấy những lời này đáng yêu và dễ đọc, những điều Cha muốn cho họ hiểu biết.
Ngày lại ngày, Cha sẽ nói cho con về những ước muốn của Cha, đối với loài người, những niềm vui, những phiền muộn của Cha, và nhất là Cha sẽ tỏ cho nhân loại thấy lòng nhân từ vô biên của Cha, sự ngọt ngào êm dịu và đầy cảm thông của tình yêu Cha, tình yêu lân tuất.
Cha cũng muốn bề trên của con hãy cho phép con dùng những thời giờ rảnh rỗi để chuyện vãn cùng Cha. Và Cha cũng muốn mỗi ngày con có thể dùng nửa giờ để an ủi Cha, yêu mến Cha, và cầu bầu cho các con cái Cha có tâm hồn làm việc, để mở rộng việc tôn thờ đặc biệt như Cha vừa cho con biết, ngõ hầu mọi người đạt tới một niềm tín cẩn lớn lao đối với người Cha chỉ muốn được lòng yêu mến của con cái mình.
Để công cuộc này được lan rộng trong lòng mọi dân tộc cách nhanh chóng hết sức có thể, mà những người được ủy thác công cuộc truyền bá không mắc phải sự thiếu khôn ngoan nhỏ nhặt nào. Vì ý ấy, Cha xin con mỗi ngày hãy sống trong tinh thần tịnh hiệp hồi tâm sâu xa. Con sẽ được hạnh phúc, nếu con bằng lòng hạn chế lời nói với các thụ tạo. Để trong sâu kín của tâm hồn con, dầu khi con ở giữa họ, con cũng hãy chuyện vãn cùng Cha và lắng nghe Cha.
Đàng khác, đây cũng là điều Cha muốn con thực hiện: Đôi khi Cha sẽ nói chuyện riêng của con, con sẽ viết những lời tâm sự của Cha vào một cuốn sổ riêng biệt. Nhưng ở đây, Cha muốn nói với mọi người rằng: Cha sống với con người còn thân thiết hơn một người mẹ với đứa con nhỏ của bà.
Từ khi tạo dựng loài người, chưa có một giây phút nào Cha không sống kề cận bên con người. Vì là Tạo Hóa và Hiền Phụ của họ, Cha cảm thấy phải yêu thương họ. Không phải vì Cha cần đến họ điều chi, nhưng tình yêu Hiền Phụ và tình thương của Đấng Tạo Hóa khiến Cha cảm thấy phải yêu thương loài người. Vậy nên, Cha sống gần gũi với con người, Cha đeo bám họ khắp mọi nơi, Cha giúp đỡ họ trong mọi sự, Cha bù đắp các thiếu thốn của họ. Cha thấy rõ các nhu cầu, những lao nhọc, những nỗi lo âu và mọi ước muốn của họ. Và hạnh phúc lớn nhất của Cha là giúp đỡ và cứu họ.
 Loài người coi Cha là Ông Thiên Chúa đáng sợ, và rằng Cha xô đẩy cả nhân loại xuống hỏa ngục. Ngạc nhiên cho họ dường nào khi đến ngày  tận thế, họ sẽ thấy biết bao linh hồn mà họ tưởng là đã hư mất đời đời, nhưng thực sự được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu giữa cộng đoàn các thánh.
 Cha mong ước tất cả mọi thụ tạo của Cha xác tín rằng: Họ có một người Cha hằng canh chừng họ, và muốn cho họ ngay từ đời này được hưởng trước niềm vui ấy, như tiền vị của hạnh phúc Thiên Đường.
 Một người mẹ không bao giờ quên được đứa con bé nhỏ non nớt mình vừa cho ra đời. Thì việc Cha nhớ đến mọi thụ tạo của Cha, lại không kỳ diệu hơn thế hay sao? Đó chẳng phải là nét đẹp về phía Cha sao? Vậy nếu người mẹ còn yêu dấu đứa con bé nhỏ mà chính Cha đã ban cho họ, thì Cha, Cha còn yêu nó hơn tình yêu của người mẹ, vì chính Cha đã tạo dựng ra nó.
Nếu như đôi khi có người mẹ nào kém thương yêu đứa con vì một khuyết tật nào đó nơi đứa bé, nhưng Cha thì ngược lại, Cha càng yêu thương đứa bé ấy nhiều hơn nữa. Giả như có người mẹ nào quên con mình hoặc ít khi tưởng nghĩ đến nó, nhất là khi tuổi già đã làm cho bà mất đi sự mẫn tiệp, thì Cha, Cha không bao giờ quên nó. Cha luôn luôn yêu nó. Dầu cho nó không còn nhớ Cha là Cha của nó và là Đấng Tạo Dựng nên nó, Cha vẫn nhớ đến nó và vẫn yêu thương nó.
Ở trên, Cha đã nói với các con rằng: Cha muốn ban cho các con ngay từ đời này được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng, nhưng các con không hiểu lời đó. Ý nghĩa lời đó như sau: Nếu các con yêu mến Cha, và nếu các con có lòng tín cẩn gọi Cha bằng danh từ ngọt ngào “Cha”, thì ngay từ đời này, các con bắt đầu có lòng yêu mến và tín cẩn, là những điều tạo nên hạnh phúc cho các con muôn thuở muôn đời, và các con sẽ cùng hợp tiếng hoan ca trên trời với cộng đoàn các thánh. Đó chẳng phải là hưởng trước hạnh phúc thiên đường muôn đời bất diệt đó sao?
Vậy Cha ước mong con người năng nhớ rằng: Họ ở đâu là Cha ở đó, và họ không thể sống được nếu như Cha không ở với họ, đang sống như họ. Cho dù họ không tin, nhưng Cha vẫn không ngừng ở kề bên họ.
A! Cha ước ao dường nào được thấy thực hiện chương trình mà Cha muốn thông báo cho các con như sau: Cha muốn thiết lập một niềm tín cẩn lớn lao giữa con người với Cha Trên Trời của mình, một tinh thần đích thực, vừa thân mật vừa tế nhị, luôn luôn đi đôi, để khỏi lạm dụng lòng nhân từ lớn lao của Cha. Cha biết rõ các nhu cầu, các ước muốn, và cả nội tâm các con. Nhưng Cha sẽ sung sướng và biết ơn dường nào, nếu Cha thấy các con đến với Cha và tỏ lời tâm sự cùng Cha về các nhu cầu của các con như một trẻ nhỏ thường làm đối với cha mình. Làm sao Cha có thể từ chối các con điều gì dù nhỏ bé hay có tầm quan trọng, nếu các con xin cùng Cha? Mặc dù các con không nhìn thấy Cha, nhưng chẳng lẽ các con cũng không cảm nhận được Cha rất gần kề bên các con, do những biến cố xảy đến nơi nội tâm hay chung quanh các con sao? Thật phúc cho các con biết bao, ngày nào mà các con dù không thấy Cha mà vẫn tin Cha!
Ngay lúc này, Cha đang ở đây, đích thân Cha ở giữa các con, đang nói chuyện với các con, không ngừng lặp đi nhắc lại dưới mọi hình thức rằng: Cha yêu thương các con, Cha muốn được nhận biết, yêu mến và tôn kính bằng một phụng tự đặc biệt. Vậy mà các con không thấy Cha, chỉ trừ một người duy nhất, người mà Cha đọc cho chép sứ điệp này! Một người duy nhất trong cả nhân loại! Tuy nhiên, này đây Cha đang nói với các con, và qua con người mà Cha đang ngỏ lời, đang phán dạy đây, ấy là Cha nhìn thấy tất cả các con và đang ngỏ lời với tất cả các con, cũng như từng người một, và Cha yêu thương các con như các con đang thấy Cha!
Cha muốn nhân loại nhận biết và cảm nhận Cha đang gần gũi từng người. Hỡi các con, các con hãy nhớ rằng Cha ước mong được trở nên niềm hy vọng của nhân loại. Mà Cha đã chẳng là như thế sao? Giả như Cha không phải là hy vọng của loài người, thì loài người đã vong thân rồi! Nhưng điều cần là Cha phải được loài người nhận biết như thế, ngõ hầu bình an, tín cẩn và yêu thương thâm nhập vào lòng mọi người, và đưa họ đến gặp gỡ với Cha của họ trên trời và ngay tại dương thế!
Các con đừng nghĩ Cha là Ông Già đáng khiếp sợ, mà con người hình dung ra trên các tranh ảnh và sách vở của họ. Không! Không! Cha không trẻ hơn cũng không già hơn Con của Cha và Thánh Thần của Cha. Vậy, Cha muốn mọi người, từ em bé đến cụ già, đều gọi Cha bằng từ thân mật “Cha, Bạn”, bởi vì Cha luôn ở với các con, và cả bằng từ “Anh, Em”, vì Cha tự làm cho Cha nên giống các con, để làm cho các con nên giống Cha.
Cha sẽ vui mừng biết bao, khi thấy các bậc cha mẹ dạy con cái mình năng gọi Cha bằng danh xưng “Cha”, vì Cha thật là như thế!
Cha ước ao dường nào được thấy vun trồng trong các tâm hồn trẻ thơ ấy một niềm tín cẩn, một tình yêu con thảo đối với Cha! Cha đã làm tất cả cho các con, các con lại không thực hiện điều ấy cho Cha sao?
Cha muốn cư ngụ trong mọi gia đình như trong lãnh địa của Cha, để mọi người có thể an tâm tuyệt đối và nói vững mạnh rằng: “Chúng tôi có một người Cha nhân từ vô biên, giàu có vô hạn và lân tuất khôn lường. Ngài tưởng nghĩ đến chúng tôi. Ngài gần kề với chúng tôi. Ngài yêu thương chúng tôi. Ngài chăm sóc nâng đỡ chúng tôi. Ngài sẽ ban cho chúng tôi mọi sự chúng tôi thiếu thốn, nếu như chúng tôi kêu xin Ngài. Tất cả tài sản của Ngài là của chúng tôi. Chúng tôi sẽ có tất cả những gì cần thiết cho chúng tôi”.
Với lòng nhân từ hiền phụ của Cha, Cha sẽ ban cho chúng con tất cả, miễn là mọi người biết coi Cha như người Cha thật sống giữa con cái mình, vì quả thật Cha đúng là như thế.
Cha còn ước ao mọi gia đình, hãy trang trọng trưng bày bức hình, sau này Cha sẽ cho “ái nữ bé nhỏ” của Cha biết. Cha muốn qua đó, mỗi gia đình hãy đặt mình dưới sự che chở đặc biệt của Cha, để có thể tôn kính Cha một cách dễ dàng. Ở đó, mỗi ngày gia đình sẽ bày tỏ với Cha những nhu cầu, những công việc, những lo buồn đau khổ, những ước muốn cũng như những niềm vui, bởi vì một người Cha phải biết tất cả những gì liên quan đến con cái mình. Dĩ nhiên Cha biết tất cả, bởi vì Cha hiện diện ở đó, nhưng Cha yêu quý tấm lòng đơn sơ. Cha muốn hòa mình theo thân phận các con. Cha bé nhỏ với người bé nhỏ, Cha trung niên với người trung niên. Với người già, Cha cũng làm ra giống họ, ngõ hầu mọi người đều hiểu điều Cha muốn nói với họ để thánh hóa họ và làm vinh danh Cha.
Bằng chứng về những điều Cha vừa nói, các con không thấy rõ nơi Con Cha ư? Người đã trở thành bé nhỏ và yếu đuối như các con! Ngay bây giờ, các con vẫn chưa thấy bằng chứng ấy khi Cha đang nói với các con ở đây hay sao? Và để cho các con hiểu được điều Cha muốn nói với các con, Cha đã chẳng mang hình hài một thụ tạo tầm thường như các con để lên tiếng đó sao? Phải chăng lúc này Cha không giống hệt các con sao?
 Này xem, Cha đã đặt triều thiên của Cha ở dưới chân và ôm lấy địa cầu trên Trái Tim Cha. Cha đã để lại trên trời tất cả vinh quang của Cha. Và Cha đã đến đây, tự làm cho Cha trở nên tất cả cho mọi người, nghèo khó với những ai nghèo khó, và giàu sang với những ai giàu sang.
Như một người Cha, Cha muốn che chở giới trẻ như người Cha hiền. Thế giới này có biết bao sự đồi bại! Những tâm hồn ít kinh nghiệm đáng thương ấy đang bị quyến rũ bởi biết bao thói xấu, để rồi dần dần đi vào trụy lạc hoàn toàn.
Hỡi các con là những người đặc biệt cần có người coi sóc bảo vệ trong cuộc đời, để có thể tránh sự dữ, các con hãy đến cùng Cha! Cha là Cha của các con! Cha yêu thương các con hơn bất cứ thụ tạo nào có thể yêu các con! Các con hãy ẩn náu bên Cha. Hãy trao phó cho Cha mọi tư tưởng, ước muốn của các con. Cha trìu mến các con biết bao! Cha ban ân sủng cho các con trong hiện tại và sẽ chúc lành cho tương lai các con. Cha không quên các con dù đã tạo dựng nên các con đến nay là 15, 20, 25 hay 30 năm.
Các con hãy đến! Cha thấy rằng các con cần đến một người Cha hiền từ và nhân hậu vô biên như Cha.
Còn nhiều điều khác nữa, nói ra ở đây cũng thích hợp, nhưng Cha có thể dành lại về sau.
Giờ đây Cha muốn ngỏ lời riêng với linh hồn những người Cha đã tự chọn lựa, là các linh mục và tu sĩ, những người con rất yêu dấu của lòng Cha. Cha có những ý định lớn về những người con đó.


4. Với Ðức Giáo Hoàng

Hỡi con dấu yêu của Cha, Đại Diện của Cha, Cha hướng về con trước mọi người khác, để trao đặt công việc này vào tay con. Trong tất cả những tác vụ của con, công tác này phải xếp hàng đầu, và vì quỷ dữ đã gây ra một nỗi sợ hãi nơi nhân loại, nên công trình này phải được hoàn tất trong thời gian này.
Ôi, Cha mong muốn con hiểu biết tầm mức của công việc này, sự lớn lao, chiều dài, chiều rộng, chiều sâu, và chiều cao của nó. Cha muốn con hãy hiểu biết, những ước vọng bao la của Cha dành cho nhân loại, hiện tại và tương lai! Ước chi con hiểu biết Cha khát mong được nhân loại nhận biết, yêu mến, và tôn vinh bằng một lòng sùng kính đặc biệt biết bao! Cha đã khát vọng như thế từ đời đời, ngay khi con người đầu tiên vừa được tác thành. Cha đã thổ lộ khát vọng ấy cho nhân loại vào nhiều thời điểm khác nhau, nhất là trong Cựu Ước. Nhưng nhân loại chưa bao giờ hiểu được điều ấy. Giờ đây, khát vọng ấy làm Cha quên hết quá khứ, ước chi lúc này nó có thể trở thành một thực tại, nơi các thụ tạo của Cha trên khắp thế giới. Cha đang nghiêng mình xuống với thụ tạo hèn mọn nhất của Cha đây (nữ tu Eugenia) để phán dạy, và qua đó mà phán dạy toàn thể nhân loại, mặc dù nó không thể nhận ra tầm mức lớn lao của công cuộc Cha muốn thực hiện giữa nhân loại.
Cha không thể nói với nó về thần học, vì biết chắc chắn sẽ thất bại, bởi lẽ nó sẽ không hiểu được. Cha làm như thế để thực hiện chương trình của Cha qua sự đơn sơ và thơ ngây. Nhưng giờ đây, đến lượt con hãy cứu xét và đưa công việc này mau chóng đến chỗ hoàn tất.
Để được nhận biết, yêu mến và tôn vinh bằng một lòng sùng kính đặc biệt, Cha không đòi bất cứ điều gì ngoại thường. Cha chỉ mong ước thế này:
1/ Cha ước mong có một ngày, hoặc ít là một Chúa Nhật, được dành riêng để tôn kính Cha cách đặc biệt với tước hiệu Hiền Phụ của toàn thể nhân loại. Về ngày lễ này, Cha muốn có một Thánh Lễ và một bài kinh phụng vụ đặc biệt. Việc tìm ra những bản văn ấy trong các Sách Thánh không có gì là khó khăn. Nếu các con muốn dâng cho Cha lòng sùng kính đặc biệt vào một ngày Chúa Nhật, Cha sẽ chọn Chúa Nhật đầu tháng Tám. Nếu các con dâng một ngày thường trong tuần, thì Cha luôn muốn là ngày mồng bảy của tháng đó.
2/ Cha ước mong mọi giáo sĩ hãy đảm nhận việc cổ động lòng sùng kính này, và trước tiên, phải làm cho mọi người nhận biết một cách xác thực về Cha, tức là đối với họ, hiện nay cũng như mãi mãi, Cha sẽ là người Cha dịu hiền và khả ái nhất trong mọi người cha.
3/ Cha ước mong được đưa vào mọi gia đình, bệnh viện, phòng thí nghiệm, xưởng thợ, doanh trại, trụ sở các viên chức thuộc các quốc gia - tóm lại là bất kỳ nơi nào có các thụ tạo của Cha, cho dù chỉ có một người đi nữa! Cha muốn dấu hiệu khả nghiệm về sự hiện diện vô hình của Cha sẽ là một bức hình tỏ ra Cha đang thực sự hiện diện. Như thế, mọi người sẽ thi hành tất cả các hoạt động dưới ánh nhìn người Cha của họ, và Cha sẽ có trước mắt mình, những thụ tạo không những Cha đã tác thành mà còn nhận làm con cái nữa. Như vậy có thể nói, con cái của Cha sẽ ở dưới ánh nhìn người Cha dịu hiền của chúng. Ngay lúc này đây, đã hẳn Cha hiện diện khắp mọi nơi, nhưng Cha vẫn muốn được biểu hiện một cách khả nghiệm nữa!
4/ Cha ước mong các giáo sĩ và giáo hữu hãy thực hiện một số hành vi đạo đức trong năm để tôn vinh Cha, nhưng đừng gây trở ngại cho các công việc thông thường của họ. Các linh mục của Cha hãy can trường ra đi khắp nơi, đến mọi quốc gia, để đem ngọn lửa tình yêu hiền phụ của Cha đến cho nhân loại. Khi ấy các linh hồn - không những các lương dân, mà còn tất cả các giáo phái chưa thuộc về Giáo Hội chân thực - sẽ được soi sáng và được chinh phục. Phải, Cha muốn cho những người con ấy, cũng là con cái của Cha, được nhìn thấy ngọn lửa chiếu sáng trước mắt, để họ nhận biết và ôm ấp chân lý, đồng thời thực hành mọi nhân đức Kitô Giáo.
5/ Cha muốn được tôn vinh một cách rất đặc biệt tại các chủng viện, tập viện, học đường, và viện dưỡng lão. Ước chi mọi người từ nhỏ nhất đến già nhất, đều nhận biết và yêu mến Cha là Hiền Phụ, Đấng Tạo Hóa, và Cứu Độ của họ.
6/ Các linh mục hãy đi tìm trong Sách Thánh những lời của Cha đã phán dạy từ ngàn xưa và những điều này đến nay vẫn còn bí nhiệm liên quan đến việc phụng thờ mà Cha muốn tiếp nhận từ nhân loại. Ước chi các vị ấy hãy hợp sức làm cho mọi người biết đến những ước muốn và thánh ý của Cha, cụ thể là những điều Cha muốn truyền dạy nhân loại nói chung, và các linh mục, nam nữ tu sĩ nói riêng. Những linh hồn này là những người Cha đặc tuyển giữa thế gian để trọn niềm tôn vinh Cha. Dĩ nhiên cần có thời gian để thực hiện hoàn hảo những ước nguyện của Cha đối với nhân loại, như Cha đã tỏ ra cho các con! Nhưng một ngày kia, nhờ lời cầu nguyện và hy sinh của các linh hồn quảng đại, những người hiến thân cho công cuộc tình yêu của Cha. Phải, rồi một ngày kia, Cha sẽ được thỏa lòng. Hỡi con yêu dấu của Cha, Cha sẽ chúc lành cho con, và ban thưởng cho con gấp trăm về những gì con sẽ làm cho vinh danh Cha.



Hỡi Alexander, con Cha, Cha cũng muốn ngỏ lời với con, để những ước nguyện của Cha được thực hiện trên trần gian này.
Con phải liên kết với cha giải tội của ‘cây nhỏ’ của Chúa Giêsu, Con Cha, trong việc cổ động công việc này, tức là lòng sùng kính đặc biệt mà Cha mong đợi nơi nhân loại. Hỡi các con, Cha giao phó công trình này, một công cuộc rất quan trọng, và tương lai của nó cho các con. Các con hãy lên tiếng, hãy kiên định làm sáng tỏ các lời của Cha, để mọi thụ tạo nhận biết, yêu mến, và tôn vinh Cha. Nếu các con làm như thế, các con sẽ chu toàn điều Cha mong mỏi nơi các con, tức là thánh ý Cha, và các con sẽ hoàn tất những ước nguyện mà từ xa xưa Cha đã âm thầm ấp ủ. Về tất cả những gì các con thực hiện cho vinh danh Cha, Cha sẽ làm gấp đôi cho ơn cứu độ và sự nên thánh của các con. Sau cùng, trên thiên đàng, và chỉ trên thiên đàng, các con mới nhận thấy phần thưởng trọng hậu Cha sẽ ban cho các con một cách rất đặc biệt, cùng tất cả những người góp công vì mục đích này.
Cha đã tác thành nhân loại cho chính Cha, và thật chính đáng khi Cha sẽ là Tất Cả cho họ. Nhân loại không tìm được hạnh phúc đích thực bên ngoài Hiền Phụ và Đấng Tạo Hóa của họ, bởi vì con tim họ đã được dựng nên cho một mình Cha.
Về phần mình, Cha dành cho các thụ tạo một tình yêu thật lớn lao, đến độ Cha không có một niềm vui nào lớn hơn là được ở giữa chúng. Vinh hiển của Cha trên thiên đàng cao sang vô cùng, nhưng vinh hiển ấy sẽ cao sang hơn nữa, khi Cha ở giữa các con cái của Cha là toàn thể nhân loại khắp thế giới. Hỡi các thụ tạo của Cha, cùng với những người được Cha tuyển chọn, thiên đàng của các con là trên trời, bởi vì đó là nơi các con sẽ chiêm ngưỡng Cha, trong phúc hưởng kiến bất tận và hoan hưởng vinh quang muôn đời.
Hỡi nhân loại, thiên đàng của Cha là ở trần gian với tất cả các con! Phải, Cha đi tìm hạnh phúc và niềm vui của Cha trên trần gian và trong linh hồn các con. Các con có thể đem lại cho Cha niềm vui ấy, và đó là bổn phận của các con đối với Đấng Tạo Hóa và Hiền Phụ của các con, Đấng ước mong và trông chờ điều ấy nơi các con.
Niềm vui Cha được cảm nghiệm khi ở với các con, không vơi kém chút nào so với niềm vui Cha từng được hoan hưởng khi ở với Chúa Giêsu, Con Cha, trong cuộc đời dương thế của Người. Chính Cha đã sai Con Cha đến. Người được đầu thai nhờ Thánh Thần của Cha, Đấng là chính Cha, tóm lại, Cha mãi mãi là Cha.
Hỡi các thụ tạo của Cha, vì thương yêu các con như đã yêu thương Con Cha, Đấng chính là Cha, nên Cha phán với các con như đã phán với Con Cha: Các con là con yêu dấu của Cha, nơi các con, Cha được hài lòng. Vì vậy, Cha vui mừng có các con bên cạnh và ước ao ở với các con. Sự hiện diện của Cha giữa các con giống như thái dương với địa cầu. Nếu các con sẵn sàng đón tiếp Cha, Cha sẽ đến gần gũi, sẽ ngự vào, sẽ soi sáng và sưởi ấm các con bằng tình yêu vô cùng của Cha.
Về phần các con, hỡi những linh hồn trong tình trạng tội lỗi hoặc vô tri về chân lý tôn giáo, Cha không thể ngự vào các con, tuy nhiên Cha sẽ ở bên các con, vì Cha không ngớt kêu gọi và mời mọc các con hãy khát khao tiếp nhận những ân phúc Cha đem đến cho các con, để các con có thể nhìn thấy ánh sáng và được chữa lành khỏi tội lỗi.
Nhiều khi Cha nhìn đến các con và cảm thương cho tình trạng khốn cùng của các con. Lắm khi Cha trìu mến nhìn xuống để thôi thúc các con suy phục những vẻ quý đẹp của ân sủng. Cha mất nhiều ngày, có khi nhiều năm, để ở bên cạnh một số linh hồn, chỉ cốt mưu cầu hạnh phúc muôn đời cho họ. Họ không biết Cha đang ở đó trông chờ và kêu gọi họ từng giây từng phút trong ngày. Vậy mà Cha chẳng bao giờ chán ngại và vẫn nghiệm thấy niềm vui khi được ở gần các con, luôn luôn hy vọng một ngày nào đó, các con sẽ quay về với người Cha của các con, để sau cùng, các con sẽ dâng cho Cha một tác động yêu mến trước khi từ giã cõi trần. Cha sẽ cho các con điển hình về một linh hồn đang đối mặt với cái chết bất ngờ, đối với Cha, linh hồn ấy lúc nào cũng như Người Con Hoang Đàng. (Mẹ Eugenia chú thích: “Tôi đã nhìn thấy điển hình này như một sự  kiện, một cách chính xác khi Chúa Cha đọc cho tôi ghi chép thông điệp này”)
Cha đã trào đổ những ân phúc cho linh hồn ấy, nhưng nó phung phí tất cả những phúc lộc, những tặng ân người Cha dấu yêu đã ban cho nó. Hơn nữa, nó còn xúc phạm đến Cha một cách thậm tệ. Cha đã chờ đợi, đã đeo bám nó mọi nơi, đã ban cho nó các đặc ân: Sức khỏe và của cải - Cha ban thành công cho công việc của nó - đến mức độ dư thừa. Đôi khi Cha còn quan phòng ban thêm cho nó những tặng ân khác nữa. Vì thế, nó được sung túc mọi sự, nhưng nó nhìn tất cả dưới ánh sáng ảm đạm của những thói xấu, và trọn cuộc đời nó toàn những lỗi phạm vì tình trạng thường xuyên sống trong tội trọng. Nhưng tình yêu của Cha không bao giờ mỏi mệt. Cha vẫn cứ đeo đuổi nó như thường. Cha đã yêu thương nó, và nhất là bất chấp những cự tuyệt của nó, Cha vẫn vui lòng sống nhẫn nhục bên nó, hy vọng một ngày nào đó, nó sẽ đáp lại tình yêu của Cha và quay về với Cha, người Cha và Đấng Cứu Độ của nó. 
Cuối cùng, ngày sau hết của nó gần kề: Cha đã gửi đến cho nó một cơn bệnh để làm nó thức tỉnh và quay về với Cha, người Cha của nó. Thời gian thấm thoát, và đứa con đáng thương của Cha - đã 74 tuổi đời - hiện đang sống vào giờ sau hết. Cha vẫn ở đó, như từ trước đến nay: Cha thủ thỉ với nó, âu yếm hơn bao giờ hết. Cha kiên trung, Cha kêu gọi và yêu cầu các linh hồn ưu tuyển, các thần thánh của Cha hãy cầu nguyện cho nó biết xin ơn tha thứ mà Cha đang dành cho nó... Và giờ đây, trước khi trút hơi thở cuối cùng, nó mở mắt ra, nhìn nhận những sai lỗi và ý thức đã lạc quá xa nẻo đường chính trực dẫn đến cùng Cha. Nó hồi tỉnh và thều thào yếu ớt, chẳng ai chung quanh có thể nghe được: “Lạy Thiên Chúa của con, giờ đây con nhìn thấy tình yêu Chúa vẫn dành cho con thật lớn lao, vậy mà con đã không ngừng xúc phạm đến Chúa, bằng một cuộc đời xấu xa. Con chưa bao giờ tưởng nghĩ đến Chúa, người Cha và Đấng Cứu Độ của con. Giờ đây, Chúa thấu suốt mọi sự, con nài xin Chúa tha thứ tất cả sự bội bạc Chúa nhìn thấy nơi con, mà lúc này con cũng nhận ra trong tình trạng rối bời của con. Con yêu mến Chúa, lạy Cha của con và Đấng Cứu Độ của con!”
Linh hồn đã lìa đời ngay giây phút ấy, và lúc này đây, nó đang ở đây, trước thánh nhan Cha. Cha phán xử nó bằng tình yêu hiền phụ, nó đã gọi Cha bằng Cha và đã được cứu độ. Nó sẽ trải qua một thời gian thanh luyện, và sau đó sẽ được hạnh phúc muôn đời.
Trong cuộc đời của linh hồn ấy, Cha đã lấy làm vui với niềm hy vọng sẽ cứu thoát được linh hồn ấy khi nó hấp hối, giờ đây, cùng với triều đình thiên quốc, Cha càng mãn nguyện hơn nữa, vì ước nguyện của Cha, là muốn làm Cha nó, đã mãi mãi được nên trọn.
Còn đối với các linh hồn trong tình trạng công chính và ơn thánh, Cha biểu lộ hạnh phúc trong việc ở trong họ. Cha ban mình cho họ. Cha chuyển thông cho họ quyền sử dụng quyền năng của Cha, và nhờ tình yêu Cha, họ tìm được tiền cảm thiên đàng trong Cha, Người Cha và Đấng Cứu Độ của họ!”




Về cùng Giêsu