Hãy đến cùng Giêsu

Công Giáo - Mời Vào

Đi với người khôn, ắt sẽ nên khôn,
chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy hoạ. (Cn 13,20)

Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng?
Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy. (Tv 119,9)

Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. (Tv 126,5)

Mẹ hiện ra tại La Salette



Xóm nhỏ hẻo lánh La Salette và hai xóm lân bang là Ablandins và Corps ở trên triền núi Alps, phía nam Paris. Từ bao thế kỷ, đời sống tại thôn nhỏ xa xôi hầu như vô danh này luôn khó khăn, chật vật và nghèo nàn. Hầu như chẳng ai ở La Salette để ý tới những biến cố xáo trộn lớn lao xảy ra khắp nơi ngày càng nhiều và dồn dập. Tuy thế, Mẹ Maria đã chọn địa điểm này và hai mục đồng tại đây để kêu gọi dân Pháp và khắp thế giới ăn năn trở lại với Thiên Chúa hầu tránh khỏi những thảm họa lớn lao sẽ xảy ra tại Pháp và thế giới. Đức Mẹ đã dùng hai mục đồng nhỏ làm thông tín viên loan báo thông điệp của Mẹ.
Hai mục đồng này là Mélanine Máthieu, 14 hoặc 15 tuổi, và Maximin Giraud, 11 tuổi. Cả hai đều chào đời và sinh sống tại Corps, một làng nhỏ cách La Salette khoảng bốn cây số. Ablandins, Corps và La Salette là ba thôn nhỏ gần nhau ở triền núi Alps thuộc Pháp. Ba thôn nhỏ này trước kia hầu như vô danh, không mấy ai biết tới, dân chúng sinh sống tại đây rất nghèo nàn cơ cực, và thất học. Mélanine là con thứ hai trong gia đình có tám người con, và bị đẩy đi ăn xin từ lúc còn thơ dại. Maximin thì lang thang đầu đường xó chợ ăn xin, hoặc có khi lấy cắp thứ gì để ăn. Mélanine và Maximin ở cùng một thôn, nhưng mãi tới ngày 18 tháng 9, 1846, hai em mới gặp nhau nhờ được mướn chăn bò cho một nông gia tại Ablandins.
Chiều ngày 19 tháng 9, 1846, Mélanine và Maximin đang lùa đàn bò từ sườn đồi La Salette về xóm Ablandins gần đó. Khi dẫn đàn bò trở về, hai em trở lại một cái hang động nhỏ nơi hai em đã nghỉ ăn trưa, hai em thấy một vòng ánh sáng rộng lớn sáng hơn mặt trời, và vòng ánh sáng cứ lớn (mở rộng) dần và rực rỡ hơn. Khi hai em sắp chạy đi, vòng ánh sáng mở rộng ra và dần dần các em nhìn rõ Hình Dáng Một Phụ Nữ. Vị Phụ Nữ đó ngồi, hai bàn tay bưng mặt, và đang khóc.
Hình ảnh Đức Mẹ và thông điệp thì mãi tới năm 1853-1854 mới được Mélanine kể lại đầy đủ và Maximin xác nhận: Đức Mẹ mặc áo mầu trắng bạc đẹp không thể diễn tả. Đức Trinh Nữ đeo hai sợi dây chuyền, một sợi lớn một sợi nhỏ. Mọi thứ nơi Đức Trinh Nữ đều sáng chói rực rỡ hơn mặt trời nhưng không làm chói mắt.
Đức Trinh Nữ cao và cân đối. Khuôn mặt Người uy nghi tuyệt vời. Giọng nói của Đức Trinh Nữ dịu dàng, êm ái. Cặp mắt Đức Mẹ rực rỡ gấp ngàn lần những viên kim cương hiếm quí nhất, và sáng tựa hai mặt trời, nhưng dịu và trong tựa tấm gương. Trong cặp mắt Đức Mẹ, người ta có thể nhìn thấy thiên đàng. Cặp mắt đó lôi kéo người ta đến với Người; dường như Đức Mẹ muốn lôi kéo và ban chính Người.
Nơi cổ Đức Mẹ có Tượng (Chúa) Chịu Nạn tuyệt đẹp đeo trong sợi dây chuyền nhỏ. Thánh Giá này dường như bằng vàng. Chúa Kitô treo trên thánh giá; mầu da Chúa là mầu da người tự nhiên, nhưng sáng chói lọi; ánh sáng từ toàn thân Chúa tỏa ra tựa như những mũi tên sáng chói xuyên thấu trái tim tôi (Mélanine) với ước ao tan biến trong Chúa.
Đôi lần, Chúa Kitô có vẻ như chết. Đầu Chúa gục xuống phía trước và Thánh Thể Chúa dường như rớt xuống, nếu không có những chiếc đanh xuyên qua tay chân giữ vào Thánh Giá. Có lúc, Chúa Kitô như sống. Đầu Chúa thẳng lên, cặp mắt mở lớn, và dường như Chúa bằng lòng ở trên Thánh Giá.
Đức Trinh Nữ khóc ròng suốt thời gian Người nói với chúng tôi. Nước mắt của Người tuôn trào, từng giọt, từng giọt như những tia sáng, rơi xuống trên đầu gối, rồi những giọt lệ đó biến đi. Những giọt lệ đó lóng lánh và đầy yêu thương. Tôi muốn an ủi Người và làm ngưng những giọt lệ của Người.
Đức Trinh Nữ nói:
“Các con của Mẹ, vì các con không hiểu lời Mẹ nói, Mẹ sẽ nói với các con cách khác (kèm theo hình ảnh sự việc diễn ra). Nếu hoa mầu bị hư, việc đó có vẻ chưa ảnh hưởng tới các con. Mẹ cho các con thấy mùa khoai cuối năm này. Khoai sẽ tiếp tục bị hư và tới Lễ Giáng Sinh thì không còn củ nào”.
“Nếu các con có bắp, các con đừng gieo. Vì súc vật sẽ ăn hết những gì các con gieo. Tất cả những thứ gì mọc lên sẽ tan thành bụi khi các con thu hoạch. Một trận đói lớn sẽ xảy ra. Trước khi trận đói đến, các trẻ nhỏ dưới bảy tuổi sẽ bắt đầu run cầm cập và chết trong vòng tay những người bồng ẵm chúng. Những người khác sẽ đền tội qua sự đói khát. Đậu cũng sẽ hư, nho cũng sẽ mất mùa”.
“... Các linh mục, những thừa tác viên của Con Mẹ, vì cuộc sống ác độc của họ, do sự bất kính và khô khan của họ khi cử hành các nhiệm tích thánh, vì yêu tiền bạc, vì ham danh và lạc thú, các linh mục đã trở nên hố chứa phân dơ bẩn. Đúng vậy, các linh mục đang đòi báo thù, và sự báo thù đang treo lơ lửng trên đầu họ…”
“... Thiên Chúa sẽ phạt như chưa từng thấy. Khốn thay những người trên địa cầu!... Các người lãnh đạo dân Chúa đã chểnh mảng cầu nguyện và đền tội, và ma quỷ làm mờ lương tri họ... Thiên Chúa sẽ cho phép con rắn già tạo ra chia rẽ giữa những người cầm quyền nơi mọi xã hội và nơi mọi gia đình. Người ta sẽ phải chịu những thống khổ thể chất và tinh thần. Thiên Chúa sẽ bỏ mặc nhân loại cho chính nó và sẽ gởi hình phạt nối tiếp nhau đến... Xã hội loài người sắp phải chịu những hình phạt kinh khủng nhất và những biến cố lớn lao nhất. Nhân loại sẽ phải... uống chén thịnh nộ của Thiên Chúa...”
“... Xin cho vị đại diện Con của Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô IX, không bao giời rời khỏi Lamã sau năm 1859 nữa; ... Mẹ sẽ ở bên ngài. Xin cho ngài cảnh giác chống lại Napoleon: con người đó hai mặt, và khi ý muốn tự mình vừa làm giáo hoàng vừa làm hoàng đế, Thiên Chúa sẽ sớm rời khỏi y...”
“... Thế giới sẽ bị đủ mọi loại thiên tai, thêm vào với những bệnh dịch và đói khát khắp nơi. Sẽ có một loạt những cuộc chiến cho tới cuộc chiến sau cùng... Trước khi cuộc chiến cuối cùng chấm dứt, thế giới sẽ có một thứ hòa bình giả tạo. Người ta chỉ nghĩ tới vui chơi. Những kẻ ác độc sẽ phạm đủ mọi thứ tội lỗi... Nhưng phúc thay các linh hồn khiêm tốn được Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Mẹ sẽ giúp những linh hồn này chiến đấu cho tới khi kết thúc...”
“... Nếu dân của Mẹ không tự nguyện tuân theo, Mẹ sẽ phải để cho cánh tay Con của Mẹ giáng xuống trên họ. Mẹ đã đau buồn quá lâu vì các con! Mẹ đã phải cầu nguyện không ngừng để Con của Mẹ không bỏ rơi các con. Các con không bao giờ hiểu Mẹ đau lòng biết chừng nào...”
“... Thiên nhiên sẽ đòi báo thù nhân loại, và thiên nhiên rùng mình kinh sợ vì những gì xảy ra cho trái đất đã bị ô uế vì tội lỗi. Hỡi trái đất, hãy rùng mình kinh sợ... và hãy run sợ, hỡi những người cho rằng mình phụng sự Chúa Giêsu Kitô mà trong thâm tâm họ, họ phụng sự chính họ...”
“Bốn mùa sẽ bị thay đổi. Trái đất sẽ chỉ sinh ra những hoa mầu hư xấu. Các tinh tú sẽ mất đi sự vận hành bình thường. Mặt trăng sẽ chỉ tỏa ra ánh sáng đỏ úa”.
“Địa cầu sẽ bị bao phủ bởi nước và lửa, bị chấn động vì những trận động đất kinh hoàng nuốt đi những núi đồi, những thành thị... Những quái vật không gian... sẽ tạo ra những lạ lùng kinh hoàng trên mặt đất, nơi bầu khí quyển, và nhân loại sẽ ngày ngày càng hư hỏng đồi trụy”.
“Khốn thay những người sống trên mặt đất! Sẽ có những trận chiến đẫm máu và đói khát, bệnh dịch và truyền nhiễm... Người ta sẽ đập đầu vào tường, đòi chết, và sự chết sẽ là nguồn thống khổ của họ”.
“Sẽ có những trận bão tố làm rúng động các thành thị, những trận động đất làm sụp đổ nhiều quốc gia... mặt trời sẽ tối đi... vực thẳm mở rộng thêm...”
“Ai sẽ đứng vững nếu Thiên Chúa không rút ngắn thời gian thử thách?
... Và khi đó nước và lửa sẽ tẩy sạch địa cầu và tiêu hủy mọi công trình kiêu ngạo của loài người (sau đó) mọi thứ sẽ được đổi mới. Thiên Chúa sẽ được phụng thờ và tôn vinh”.
Tin Đức Mẹ hiện ra tại La Salette đã được mau chóng loan truyền khắp Nước Pháp, và trung tuần tháng 10, 1846, phần đầu của thông điệp đã được in để phổ biến.
Các lời Đức Mẹ loan báo trong phần đầu thông điệp đã xảy ra vào những ngày cuối tháng 12, 1846. Những xáo trộn chính trị, kinh tế, mất mùa đói khát, bệnh dịch, đã xảy ra ảnh hưởng hầu hết mọi người khắp Nước Pháp. Vào những ngày cuối năm 1846, khoai thối từ dưới đất, bắp bị hư, những thứ này chỉ có thể cho súc vật ăn, nhưng súc vật đã lăn ra chết vì ăn các thứ đó. Kế đến mùa đậu (óc chó) cũng mất. Nho là sản phẩm quan trọng của Pháp cũng mất mùa trầm trọng. Nạn đói hoành hành khắp nơi khiến hàng ngàn người chết; nhiều trường hợp chết hết cả gia đình.
Tất cả những biến cố này xảy ra đúng như Đức Mẹ đã cảnh cáo khiến người ta phải nhìn nhận lời Mẹ thông báo xảy ra chính xác đến độ kinh ngạc. Ngay từ đầu năm 1847, việc Đức Mẹ hiện ra tại La Salette bắt đầu được nhìn nhận, người ta đổ đến La Salette ngày càng đông, và giáo quyền khởi sự điều tra sự lạ lùng tại La Salette.
Một sự kiện yêu thương đặc biệt của Đức Mẹ là một dòng suối xuất hiện tại chính nơi Đức Mẹ hiện ra, và rất nhiều phép lạ được giáo quyền và hội đồng y khoa công nhận đã xảy ra nhờ nước suối này.
Lời tiên tri về Đức Piô IX và hoàng đế Napoleon III đã xảy ra đúng như lời tiên báo. Đức Piô IX đắc cử Giáo Hoàng vào đầu năm 1846. Vào thời gian này, không một ai tưởng tượng được là một hoàng đế Napoleon nữa xuất hiện trên đất Pháp. Một người cháu của đại đế Napoleon lên kế vị lấy tên là Napoleon III. Người cháu này của đại đế Napoleon vốn ít được người ta biết tới. Những người quen biết ông trước kia đều cho rằng ông ta tầm thường, ngờ nghệch, và không ai có thể tưởng tượng ông ta sẽ leo lên được chức tước gì. Mặc dầu vậy, tháng 12, 1848, giữa lúc mất mùa đói kém, chính trị bất ổn, ông ta được bầu làm Tổng Thống Nước Pháp, và tháng 11, 1850, ông trở thành hoàng đế Napoleon III độc tài đầy quyền lực.
Năm 1848, Đức Pio IX phải rời khỏi giáo đô Lamã vì những xáo trộn chính trị và loạn lạc. Năm 1850, Đức Piô IX trở về Lamã nhờ sự can thiệp của Napoleon III. Cuối năm 1846 những tin tức về La Salette đã tới giáo đô Lamã, nhưng mãi tới năm 1851, Đức Piô IX mới nhận được phúc trình đầy đủ về những sự việc và thông điệp Đức Mẹ ban tại La Salette. Cũng thời gian này (cuối năm 1851), Napoleon III cho thấy ý định muốn tiếm vị (chiếm ngôi vị) giáo hoàng, y hệt người bác của ông là Napoleon I trước kia.
Những lời cảnh cáo nghiêm trọng nhất về các biến cố, về cuộc sống và số phận nhân loại được các nhà nghiên cứu bình luận ghi nhận là nói về cuộc chiến Pháp-Phổ, Thế Chiến I và II, sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Tất cả đều là những “roi đòn khủng khiếp nhất” gây ra tổn thất sinh mạng và thống khổ cho hàng tỉ người.
Những điều Đức Mẹ cảnh cáo không phải chỉ xảy ra cho Nước Pháp và trong thế kỷ 19, mà cho khắp thế giới tới ngày nay. Ngày ngày các điều Đức Mẹ nói xuất hiện càng rõ ràng, nhìn vào lịch sử thế giới từ hậu bán thế kỷ 19 tới nay, chúng ta thấy biết bao lần những biến cố kinh hoàng đã xảy ra, và ngày nay các điều này càng rõ ràng hơn. Cuộc chiến Pháp-Phổ, Thế Chiến I và II đã chấm dứt, các cuộc chiến cục bộ ngày càng bớt, nhưng nguy cơ của cuộc chiến khốc liệt hơn vẫn còn treo lơ lửng trên đầu nhân loại. Mặc dầu y khoa và khoa học tiến vượt bực, nhưng từ 1960 tới nay, ô nhiễm không khí và nhiều bệnh nan y chết người lan tràn khắp thế giới, như Aids, Ebola, các tội ác gia tăng, luân lý suy đồi, thiên tai, hạn hán, lụt lội, động đất, cháy rừng, v.v… xảy ra tới mức độ khủng khiếp khắp nơi. Mà nhân loại cứ đổ thêm dầu vào lửa, người ta chỉ biết tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa khoái lạc, và cướp quyền Đấng Tạo Hóa, nhất là đại ác họa giết các hài nhi còn trong dạ mẹ. Chúng ta không thể tưởng tượng được những kinh hoàng gì sẽ xảy ra theo phần cuối thông điệp của Mẹ Maria tại La Salette. Chúng ta không thể biết khi nào những việc đó xảy ra, phải chăng đã và đang lần lần xảy ra.
Vấn đề là chúng ta phải nghe theo lời Đức Mẹ mà nhờ Mẹ dẫn dắt trở về với Thiên Chúa là Cha Nhân Từ nếu chúng ta muốn những đại họa tiên báo không xảy ra hoặc được giảm thiểu.
Đức Mẹ hiện ra tại La Salette được Giáo Hội nhìn nhận với tước hiệu:
“Đức Mẹ Sầu Bi và Sự Ăn Năn Sám Hối”

–›Mẹ hiện ra

 

Về cùng Giêsu